Thuốc thử xét nghiệm Protein C

Giá liên hệ

LIÊN HỆ TƯ VẤN SẢN PHẨM
Protein C là một proenzyme serine protease phụ thuộc vitamin K được chuyển thành protein C hoạt hóa (APC) bởi phức hợp thrombin và thrombomodulin. Khi được kích hoạt, APC tạo thành một phức hợp với protein S trên bề mặt phospholipid để nhanh chóng làm bất hoạt các yếu tố Va và VIIIa.
Về mặt lâm sàng, thiếu hụt PC dị hợp tử dẫn đến tăng nguy cơ VTE, trong khi thiếu PC đồng hợp tử dẫn đến xuất huyết nặng, DIC và tử vong ở trẻ sơ sinh. Tỷ lệ thiếu hụt PC dị hợp tử trong dân số chung là khoảng 1 trên 300; tuy nhiên, tỷ lệ thiếu hụt PC có triệu chứng VTE là 1 trong 3000–5000.
Cơ chế gây ra các bệnh nhân không có triệu chứng và có triệu chứng khác nhau vẫn chưa được biết rõ. Về mặt sinh lý, nồng độ PC trong huyết tương thấp hơn đáng kể đối với trẻ sơ sinh và trẻ em, và phải được tính đến khi so sánh kết quả với khoảng tham chiếu của người lớn. Phải sử dụng phạm vi theo tuổi cụ thể cho trẻ sơ sinh và trẻ em dưới tuổi khi đánh giá những bệnh nhân này.
Phân tử PC bao gồm năm miền chức năng. Các khiếm khuyết di truyền có thể xảy ra ở các lĩnh vực khác nhau, gây khó khăn trong việc chẩn đoán chính xác tình trạng thiếu hụt PC bằng xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Các khiếm khuyết định lượng (Loại I) là phổ biến nhất (75–80%) và tương đối dễ chẩn đoán. Các khiếm khuyết định tính trong vị trí kích hoạt và vị trí hoạt động (Loại IIa) cũng tương đối dễ phát hiện.
thuoc-thu-xet-nghiem-protein-c
Các khuyết tật khó xác định trên nền PC, bề mặt hoặc liên kết đồng yếu tố (Loại IIb) là vấn đề và phụ thuộc vào loại xét nghiệm được sử dụng. Trong số 20–25% các khiếm khuyết PC là khiếm khuyết về chất lượng, phần lớn (24,5%) là loại IIa và các khiếm khuyết PC Loại IIb còn lại chiếm khoảng 0,5–1,0% tổng số các khiếm khuyết. Dường như không có sự khác biệt về biểu hiện lâm sàng của kiểu hình (huyết khối) giữa các khuyết tật loại I và loại II của PC.
Hoạt động của PC có thể được đo trong huyết tương bằng xét nghiệm dựa trên đông máu hoặc xét nghiệm dựa trên sắc tố (amidolytic). Trong các xét nghiệm thương mại, cả hai loại xét nghiệm đông máu và tạo màu đều sử dụng chất hoạt hóa nọc rắn để chuyển PC huyết tương thành APC. Xét nghiệm sinh sắc tố dựa trên việc bổ sung chất nền sinh màu vào APC được tạo ra trong mẫu huyết tương đã pha loãng.
Sự hình thành màu sinh sắc tố tỷ lệ thuận với lượng APC (do đó là PC) trong mẫu huyết tương. Điều này xét nghiệm chỉ phân tích hai trong số các vùng chức năng của PC: kích hoạt và vị trí hoạt động (Loại IIa). Các khiếm khuyết trong liên kết đồng yếu tố, liên kết bề mặt và các vùng liên kết cơ chất khác (Loại IIb) không được phát hiện. Vấn đề bổ sung liên quan đến các xét nghiệm sinh sắc tố là khả năng đánh giá quá mức hoạt động của PC vì thiếu tính đặc hiệu của cơ chất sinh sắc tố. Nếu mẫu huyết tương được kích hoạt một phần, nồng độ PC có thể tăng giả tạo.
Các mức tăng này có thể được phát hiện nếu sử dụng mẫu trắng tạo màu để so sánh. Đánh giá thấp là khả năng xảy ra với các mẫu có tan máu đáng kể, mỡ máu, và ruột già. Một mối quan tâm chính của các xét nghiệm PC nhiễm sắc tố là đánh giá quá cao mức PC sinh lý đối với bệnh nhân dùng thuốc kháng vitamin K (VKA). Vitamin K tạo ra một phân tử PC cacboxy không có chức năng in vivo nhưng được đo bằng xét nghiệm sinh sắc tố. Xét nghiệm tạo sắc tố không phải là thước đo cho tất cả các vùng chức năng của PC. Mức PC có thể gần gấp đôi mức của xét nghiệm dựa trên cục máu.

Các xét nghiệm dựa trên đông máu chủ yếu sử dụng PTT, nhưng các xét nghiệm sử dụng PT hoặc RVVT đã được phát triển. Các xét nghiệm dựa trên PTT không bị ảnh hưởng bởi chất hoạt hóa PTT, nhưng có hoặc có thể bị ảnh hưởng bởi nguồn và nồng độ phospholipid (các khuyết tật hiếm gặp). Ngoài ra, mức độ tăng của yếu tố VIII và yếu tố VLeiden được đánh giá thấp, và tăng mức PS có thể đánh giá quá cao giá trị PC trong huyết tương. Những ảnh hưởng này có thể được loại bỏ bằng cách pha loãng huyết tương với huyết tương thiếu PC; tuy nhiên, việc sửa đổi này làm giảm giới hạn dưới của việc phát hiện PC và tăng chi phí xét nghiệm.
Các xét nghiệm kháng nguyên PC xác định sự hiện diện của các phân tử PC, nhưng không xác định chức năng hoặc hoạt động của nó. Vai trò của xét nghiệm kháng nguyên PC là để phân biệt giữa thiếu sót Loại I và Loại II khi phát hiện thấy khiếm khuyết trong chức năng của PC. Các xét nghiệm có sẵn trên thị trường và được phát triển trong phòng thí nghiệm đối với kháng nguyên PC bao gồm ELISA hoặc khuếch tán miễn dịch xuyên tâm (RID ) phương pháp luận. So sánh tỷ lệ hoạt động của PC và giá trị kháng nguyên PC có thể phân biệt loại I với loại II.